Kết quả 05 năm thi hành luật Hòa giải ở cơ sở và nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới
Sau khi Luật Hòa giải được công bố UBND thị xã Bỉm Sơn đã xây dựng, ban hành văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện; đồng thời yêu cầu UBND xã, phường rà soát, báo cáo, kiện toàn số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên cơ sở thuộc phạm vi quản lý.
Từ năm 2014-2019 UBND thị xã phối hợp với Sở Tư pháp Thanh Hóa và Thường trực Mặt trận Tổ quốc thị xã mở 05 lớp tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở; kiến thức pháp luật về hòa giải ở cơ sở cho 707 hòa giải viên cơ sở và công chức Tư pháp – Hộ tịch của các xã, phường.Công tác củng cố kiện toàn đội ngũ những người làm công tác hòa giải ở cơ sở luôn được trú trọng.
Triển khai thực hiện luật Hòa giải ở cơ sở đến các xã, phườngtrên địa bàn thị xã được thực hiện tốt. UBND các xã, phường đã phối hợp với MTTQ cùng cấp thường xuyên tổ chức kiện toàn, củng cố các tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở theo đúng quy định, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với đặc thù của khu dân cư, đồng thời tổng hợp báo cáo danh sách để phòng Tư pháp theo dõi và hướng dẫn hoạt động. Việc bầu, công nhận hòa giải viên,tổ trưởng tổ hòa giải đảm bảo tiêu chuẩn theo đúng quy định. Từ năm 2014 đến năm 2018 thị xã có 65 tổ hoà giải với 342 hoà giải viên, ở 100% khu phố, thôn, xóm và hoạt động có hiệu quả ở xã, phường. Hiện nay với quá trình sáp nhập khu phố, thôn, xóm thị xã Bỉm Sơn hiện tại có 58 tổ hòa giải với 290 hòa giải viên hoạt động ở 07 xã, phường. Các hòa giải viên cơ sở hoạt động kiêm nhiệm nhưng nhiệt tình, tích cực và trách nhiệm với công việc. Do đó đã góp phần vào việc ổn định tình hình ở khu dân cư,tăng thêm tình làng, nghĩa xóm ở nơi cư trú, cùng nhau chung tay xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Công tác tập huấn kiến thức pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên luôn được các cấp, các ngành quan tâm.Thông qua các lớp tập huấn đã trang bị kiến thức pháp luật cơ bản như: Luật Hòa giải ở cơ sở; Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở; nội dung cơ bản của một số văn bản pháp luật liên quan thiết thực đến quyền và nghĩa vụ cuả công dân… một số kinh nghiệm việc tiếp cận, xác định các vụ việc tranh chấp,mâu thuẫn nhỏ trong nội bộ của công dân để các hòa giải viên tuyên truyền, tham khảo và áp dụng trong thực tế.
Kết quả hoạt động hòa giải ở cơ sở, 5 năm qua cho thấy;Các tổ hoà giải tích cực thực hiện công tác, nhiệm vụ và hoàn thành công việc được giao. Từ 2014 đến nay đã tiếp nhận 598 vụ, việc; trong đó tổ chức hòa giải thành 554 vụ, việc =92,6%;chuyển cơ quan có thẩm quyền 44 vụ( chiếm 7,3%), việc; các vụ, việc chủ yếu thuộc các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai và mẫu thuẫn, tranh chấp khác. Cụ thể năm 2014 tiếp nhận 206 vụ việc, đã hoà giải thành 197 vụ việc bằng 95,6%; chuyển cơ quan chức năng giải quyết09 vụ việc , chiếm 4,4%. Năm 2015 tiếp nhận 135 vụ việc, đã hòa giải thành 124 vụ việc = 91,9%; chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 11 vụ việc,chiếm 8.1% có thẩm quyền giải quyết. Năm 2016 đã tiến hành hòa giải 101 vụ, việc, trong đó hòa giải thành 89 vụ = 88,1%, chuyển cơ quan chức năng xem xét giải quyết 12 vụ, việc = 11,8%. Năm 2017 tiếp nhận 77 vụ việc, hòa giải thành 72 vụ, việc = 93,5%, chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 05 vụ, việc = 6,5%; Năm 2018 tiếp nhận 79 vụ, việc, hòa giải thành 72 vụ, việc = 91,1%, chuyến các cơ quankhác giải quyết 07 vụ, việc = 8,9%. Về kinh phí đảm bảo cho hoạt động của các tổ hòa giải hiện tại UBND các xã,phường thanh toán chi theo các vụ, việc thực tế. UBND thị xã hàng năm hỗ trợ đảm bảo để tổ chức tập huấn nghiệp vụ và cấp tài liệu cho các tổ hòa giải.
Có được kết quả trên đây là do có được sự quan tâm, chăm lo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đã lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đến việc kiện toàn đội ngũ và bố trí kinh phí cho công tác hòa giải. Công tác tuyên truyền và thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở đã được UBND các cấp chú trọng, quan tâm và chỉ đạo thực hiện đồng bộ, kịp thời nên trong thời gian qua công tác hòa giải đã đạt được những kết quả nhất định tỷ lệ hòa giải thành cao, số lượng đội ngũ hòa giải viên bước đầu được nâng lên cả về số lượng và chất lượng góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, giảm đáng kể tình trạng đơn khiếu nại, tố cáo, kiền nghị.
Tuy nhiên do kinh phí, tài liệu, trang bị cơ sở vật chất cho hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa kịp thời, còn hạn hẹp nên hiệu quả hoạt động hòa giải đang còn hạn chế cần phải khắc phục. Thời gian tới công tác Hòa gải cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Cấp ủy, UBND, UBMT Tổ quốc từ thị xã đến cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí kinh phíđưa vào dự toán chi ngân sách hàng năm của đơn vị phục vụ cho công tác hòa giải ở cơ sở, thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho lực lượng hòa giải viên.
Có Kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nhằm nâng cao vị trí, vai trò, năng lực, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm quản lý công tác hòa giải và đội ngũ hòa giải viên để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở.
Cần làm tốt hơn nữa công tác phối hợp trong lãnh đạo chỉ đạo, quản lý hoạt động Hòa gải ở cơ sở.
Đỗ Đức Thẩm
Kết quả 05 năm thi hành luật Hòa giải ở cơ sở và nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới
Sau khi Luật Hòa giải được công bố UBND thị xã Bỉm Sơn đã xây dựng, ban hành văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện; đồng thời yêu cầu UBND xã, phường rà soát, báo cáo, kiện toàn số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên cơ sở thuộc phạm vi quản lý.
Từ năm 2014-2019 UBND thị xã phối hợp với Sở Tư pháp Thanh Hóa và Thường trực Mặt trận Tổ quốc thị xã mở 05 lớp tổ chức hội nghị tập huấn nghiệp vụ pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở; kiến thức pháp luật về hòa giải ở cơ sở cho 707 hòa giải viên cơ sở và công chức Tư pháp – Hộ tịch của các xã, phường.Công tác củng cố kiện toàn đội ngũ những người làm công tác hòa giải ở cơ sở luôn được trú trọng.
Triển khai thực hiện luật Hòa giải ở cơ sở đến các xã, phườngtrên địa bàn thị xã được thực hiện tốt. UBND các xã, phường đã phối hợp với MTTQ cùng cấp thường xuyên tổ chức kiện toàn, củng cố các tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở theo đúng quy định, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với đặc thù của khu dân cư, đồng thời tổng hợp báo cáo danh sách để phòng Tư pháp theo dõi và hướng dẫn hoạt động. Việc bầu, công nhận hòa giải viên,tổ trưởng tổ hòa giải đảm bảo tiêu chuẩn theo đúng quy định. Từ năm 2014 đến năm 2018 thị xã có 65 tổ hoà giải với 342 hoà giải viên, ở 100% khu phố, thôn, xóm và hoạt động có hiệu quả ở xã, phường. Hiện nay với quá trình sáp nhập khu phố, thôn, xóm thị xã Bỉm Sơn hiện tại có 58 tổ hòa giải với 290 hòa giải viên hoạt động ở 07 xã, phường. Các hòa giải viên cơ sở hoạt động kiêm nhiệm nhưng nhiệt tình, tích cực và trách nhiệm với công việc. Do đó đã góp phần vào việc ổn định tình hình ở khu dân cư,tăng thêm tình làng, nghĩa xóm ở nơi cư trú, cùng nhau chung tay xây dựng nếp sống văn minh đô thị, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Công tác tập huấn kiến thức pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên luôn được các cấp, các ngành quan tâm.Thông qua các lớp tập huấn đã trang bị kiến thức pháp luật cơ bản như: Luật Hòa giải ở cơ sở; Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở; nội dung cơ bản của một số văn bản pháp luật liên quan thiết thực đến quyền và nghĩa vụ cuả công dân… một số kinh nghiệm việc tiếp cận, xác định các vụ việc tranh chấp,mâu thuẫn nhỏ trong nội bộ của công dân để các hòa giải viên tuyên truyền, tham khảo và áp dụng trong thực tế.
Kết quả hoạt động hòa giải ở cơ sở, 5 năm qua cho thấy;Các tổ hoà giải tích cực thực hiện công tác, nhiệm vụ và hoàn thành công việc được giao. Từ 2014 đến nay đã tiếp nhận 598 vụ, việc; trong đó tổ chức hòa giải thành 554 vụ, việc =92,6%;chuyển cơ quan có thẩm quyền 44 vụ( chiếm 7,3%), việc; các vụ, việc chủ yếu thuộc các lĩnh vực như dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai và mẫu thuẫn, tranh chấp khác. Cụ thể năm 2014 tiếp nhận 206 vụ việc, đã hoà giải thành 197 vụ việc bằng 95,6%; chuyển cơ quan chức năng giải quyết09 vụ việc , chiếm 4,4%. Năm 2015 tiếp nhận 135 vụ việc, đã hòa giải thành 124 vụ việc = 91,9%; chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 11 vụ việc,chiếm 8.1% có thẩm quyền giải quyết. Năm 2016 đã tiến hành hòa giải 101 vụ, việc, trong đó hòa giải thành 89 vụ = 88,1%, chuyển cơ quan chức năng xem xét giải quyết 12 vụ, việc = 11,8%. Năm 2017 tiếp nhận 77 vụ việc, hòa giải thành 72 vụ, việc = 93,5%, chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 05 vụ, việc = 6,5%; Năm 2018 tiếp nhận 79 vụ, việc, hòa giải thành 72 vụ, việc = 91,1%, chuyến các cơ quankhác giải quyết 07 vụ, việc = 8,9%. Về kinh phí đảm bảo cho hoạt động của các tổ hòa giải hiện tại UBND các xã,phường thanh toán chi theo các vụ, việc thực tế. UBND thị xã hàng năm hỗ trợ đảm bảo để tổ chức tập huấn nghiệp vụ và cấp tài liệu cho các tổ hòa giải.
Có được kết quả trên đây là do có được sự quan tâm, chăm lo của các cấp ủy Đảng, chính quyền đã lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đến việc kiện toàn đội ngũ và bố trí kinh phí cho công tác hòa giải. Công tác tuyên truyền và thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở đã được UBND các cấp chú trọng, quan tâm và chỉ đạo thực hiện đồng bộ, kịp thời nên trong thời gian qua công tác hòa giải đã đạt được những kết quả nhất định tỷ lệ hòa giải thành cao, số lượng đội ngũ hòa giải viên bước đầu được nâng lên cả về số lượng và chất lượng góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, giảm đáng kể tình trạng đơn khiếu nại, tố cáo, kiền nghị.
Tuy nhiên do kinh phí, tài liệu, trang bị cơ sở vật chất cho hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ chưa kịp thời, còn hạn hẹp nên hiệu quả hoạt động hòa giải đang còn hạn chế cần phải khắc phục. Thời gian tới công tác Hòa gải cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Cấp ủy, UBND, UBMT Tổ quốc từ thị xã đến cơ sở tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bố trí kinh phíđưa vào dự toán chi ngân sách hàng năm của đơn vị phục vụ cho công tác hòa giải ở cơ sở, thực hiện đầy đủ chế độ chính sách cho lực lượng hòa giải viên.
Có Kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nhằm nâng cao vị trí, vai trò, năng lực, kỹ năng, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm quản lý công tác hòa giải và đội ngũ hòa giải viên để thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở.
Cần làm tốt hơn nữa công tác phối hợp trong lãnh đạo chỉ đạo, quản lý hoạt động Hòa gải ở cơ sở.
Đỗ Đức Thẩm