Chuyện về người vợ liệt sỹ thờ chồng nuôi bốn con khôn lớn, trưởng thành
Có một nhà thơ đã từng viết “Vắng em đòn gánh chông chênh hai đầu” để nói sự “chông chênh” khi người bạn đời vắng nhà. Ở tổ dân phố Đông Thị, phường Bỉm Sơn có một người vợ liệt sỹ đã “chông chênh” trọn đời, ở vậy thờ chồng – nuôi 4 người con khôn lớn trưởng thành. Đó là câu chuyện của bà Thịnh Thị Xuân, vợ liệt sỹ Phạm Hữu Lưu.
Sáng ngày 27/7, trời Bỉm Sơn yên bình, khác hẳn những ngày giông bão cách đây ít hôm. Ngôi nhà nhỏ của bà Xuân rộn ràng tiếng nói trẻ thơ. Đã thành thông lệ, hằng năm, cứ vào ngày này, con cháu bà ở phương xa lại quây quần về đây để tưởng nhớ người chồng, người cha, người ông đáng kính, người đã hy sinh thân mình để bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân.
Sum vầy bên con cháu, bà Thịnh Thị Xuân xúc động khi nhớ về khoảng thời gian cách đây gần 50 năm, khi bà và chồng đang là những chàng trai, cô gái tuổi xuân phơi phới, cùng tham gia phục vụ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Năm 1976, trong một lần về phép, 2 người lần đầu gặp nhau, cảm mến người con gái hiền lành, nết na, ông đã ngỏ lời chỉ bằng một câu giản dị “Mình quen nhau được không?”. Thế rồi hai người trở về đơn vị và liên lạc với nhau qua những cánh thư. Trong những lá thư ấy, họ hẹn ước một ngày về chung một mái nhà.
Khoảng 2 năm sau, ông và bà lần lượt phục viên. Cuối năm 1978, lời hẹn ước trở thành hiện thực, họ về chung đôi. Cuộc sống bình dị cứ thế trôi qua. Bốn người con 3 gái – 1 trai lần lượt ra đời trong tình yêu thương của cha mẹ. Ông được tín nhiệm làm Xã đội trưởng. Ở xã Hà Vinh cũ, ai cũng biết và đều yêu quý người xã đội trưởng hiền hậu, gần gũi với bà con, nhiệt tình, năng nổ trong công việc. Còn với bà, ông là một người con có hiếu với cha mẹ, yêu vợ, thương con.
Đôi mắt bà bỗng hoe đỏ khi chạm vào ký ức của những ngày mưa bão định mệnh năm 1994. Bà Xuân còn nhớ rất rõ, hôm ấy là ngày 12/8, bão tràn về, mưa to, gió lớn. Ông tham gia chống bão, bảo vệ Nhân dân. Trong lúc làm nhiệm vụ, ông đã hy sinh, để lại cho bà 4 người con thơ dại và cả quãng đường “chông chênh” phía sau.
Sau khi chồng mất vài năm, mẹ chồng bà bị tai biến, nằm liệt giường. Chẳng nề hà gì, một tay bà chăm sóc mẹ chồng từ bữa cơm, giấc ngủ, vệ sinh cá nhân. Gia cảnh khó khăn, bà phải vào đồi, đào sắn, cắt lát, phơi khô rồi nấu chung với cơm. Bao nhọc nhằn, vất vả dồn lên đôi vai gầy của người phụ nữ mới ngoài 30 tuổi. Nhiều người trong xã cảm mến bà vì nết người, ngỏ lời cùng bà bước tiếp quãng đường sau. Nhưng bà đều khước từ, một lòng chăm mẹ, thờ chồng, nuôi con.
Những đứa con thơ dần khôn lớn, trưởng thành từ những “nồi cơm trộn sắn” của mẹ. Không phụ sự tần tảo của mẹ, họ lần lượt thi đỗ Đại học, trở thành giáo viên, công an. Giờ đây ai cũng có cuộc sống ổn định, khẳng định được bản thân trong xã hội.
Trong những ngày tháng 7 – tháng nghĩa tình, bà Xuân nhớ về người chồng yêu thương, và hạnh phúc vì đã giữ trọn lời thề ước vợ chồng, vì đã thay ông nuôi dạy con khôn lớn, thành tài.
Trong thời chiến, có biết bao chiến sỹ hy sinh tuổi xanh, xương máu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Và trong thời bình, cũng đã có nhiều tấm gương hy sinh vì sự bình yên, vì tính mạng, tài sản của Nhân dân. Sự hy sinh ấy là minh chứng rõ nét cho tinh thần quên mình vì cộng đồng, luôn sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy để bảo vệ cuộc sống của Nhân dân. Mỗi người dân Bỉm Sơn sẽ luôn khắc ghi và biết ơn sự hy sinh đó, và cả những hy sinh lặng thầm của những người mẹ, người vợ liệt sỹ.