Tam Điệp – Ba Dội: Một vùng non nước hữu tình
Tam Điệp – Ba Dội, địa giới phân cách hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá, nơi có đường Thiên Lý Bắc - Nam chạy qua. Nơi đây đã từng là phòng tuyến vững chắc của Vua Qung Trung, khi tiến quân ra Bắc làm nên đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789, vang dậy non sông. Tam Điệp còn gọi là Ba Dội vì nó gồm 3 dãy núi đá vôi hình thù phức tạp, dị kỳ.
Quang cảnh đèo Ba Dội. |
Theo “Việt Nam từ điển” của Lê Ngọc Trụ thì “Tam Điệp - tục gọi là Đèo Ba Dội” dãy núi dài chia thành 3 đợt: Một ở phí Bắc Thanh Hoá, hai là ngọn cao nhất chia địa giới hai tỉnh Thanh Hoá và Ninh Bình, ba là trong địa phận tỉnh Ninh Bình. Cả ba chắn ngang đường Thiên Lý Bắc – Nam”.
Đỉnh đèo cao 110m so với mặt nước biển, ta có thể ngắm nhìn mây trời, non nước, biển khơi… tương truyền rằng, Liễu Hạnh công chúa đã từng lập quán bán hàng ở đỉnh đèo Ba Dội và cũng để giao du với khách văn chương. Mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, nhân dân vẫn còn truyền tụng câu ca dao đầy lưu luyến:
Ăn trầu nhớ miếng cau khô
Trèo lên Ba Dội nhớ cô bán hàng
Tam Điệp - Ba Dội nằm trong vùng “nhất bách lục sơn” (106 quả núi), rừng núi trập trùng và con đường Thiên Lý đầy hiểm trở, dáng thắt cổ bầu quanh co uốn lượn qua những khe núi và những vách đá dựng đứng như bức tường thành, tạo nên thế trận “một địch muôn người” dưới con mắt của những nhà tài ba quân sự, Tam Điệp - Ba Dội cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho những tao nhân mặc khách mỗi lần qua lại.
Hồ Xuân Hương – Bà chú thơ nôm đã tả đèo Ba Dội: “Một đèo, một đèo, lại một đèo” - Ở ngay câu đầu ta đã hình dung được đây là ba đèo liên tiếp với cảnh đầy mầu sắc và sống động, đậm nét trữ tình đằm thắm và trào lộng đầy ý vị…
Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Bậc đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo!
Phạm Huy Chú (1782 - 1840) đã viết về ngọn núi cao, cỏ cây xanh tốt, đứng trên ngọn núi trông thấy biển lớn, là một cửa ải trọng yếu của xứ Thanh Hoá. Núi ở chung quanh, đường đi ở giữa, trông về hai bên tả hữu, núi như chậu úp một loạt, chỗ gần hết núi thì hai bên như bức vách đứng thẳng lên, giữa có một lối đi lại, tục truyền đó là miệng của thầy tu Khổng Lồ (tức sư Không Lộ đời Lý, tục gọi là Khổng Lồ).
Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) đã có thơ vịnh:
Phiên âm:
Đoạn tục quần sơn nhãn giới khoan
Ngư thuyền thiên khống Cửa Chân quan.
Dịch nghĩa:
Một dãy núi chỗ cách, chỗ liền, tầm con mắt coi rất bát ngát
Đó đơm cá của trời tạo ra để chắn lấy cửa ải Cửa Chân.
Tạm dịch thơ:
Dãy núi trập trùng tầm mắt thoáng
Tựa đó đơm trời trấn Cửa Chân.
(Đặng Anh - dịch)
(Lịch Triều Hiến Chương loại chí. Tập 1. Sử học 1960 – trang 45)
Quốc Sử quán triều Nguyễn thì viết “… Đứng ở đỉnh núi trông ra ngoài biển, buồm thuyền như lá tre, hai ngọn phía tả hữu nơi thấp và bằng. Năm Thiệu Trị thứ 3 Vua xa giá tuần du phương Bắc, có làm thơ khắc vào đá dựng nhà bia ở ngọn giữa”. (“Đại Nam nhất thống trí” Tập II – Nhà xuất bản KHXH, 1970 – trang 218).
Nhà bia hiện nay đã được trùng tu và tôn tạo khang trang, uy nghi, đường bệ giữa đồi cao lộng gió. Tấm bia khắc bài thơ của vua Thiệu Trị được lưu giữ tại nhà bia.
Sau đây là bài thơ của vua Thiệu Trị (1841 – 1847)
Phiên âm:
Đường lộ sầm khâm tích thuý nồng
Tầng tầng túng bộ khoá Cầu Long
Bất vi Vương thất không lưu kính
Canh tác La Pù thặng biệt tung
Viễn nhạ tương phùng lâm nhất đỉnh
Cao phân diệt xuất thướng trùng phong
Toàn ngon phấn trấn Thanh Ninh cảnh
Khôi phục bàn hồ diệu tú chung.
Dịch thơ:
Giữa lối xanh um, núi chất chồng
Tầng tầng phóng bước cưỡi Cầu Long
Chẳng như Vương Ốc chừa nơi tắt.
Còn giống La Phù biệt lối thông
Đón gặp, thăm xa, xuôi một ngọn
Vin cao, trùng điệp, biết bao vùng
Thanh Ninh hai trấn đây ranh giới
Lên xuống, quanh co lượn khắc vùng.
(Bùi Vĩ - dịch)
Tam Điệp - Ba Dội hôm nay đang khởi sắc cùng với khu công nghiệp Bỉm Sơn, một tiềm năng lớn về kinh tế của Tỉnh ta trong thời kỳ đổi mới.
Tam Điệp - Ba Dội không còn heo hút, trập trùng, hoang sơ như thuở nào… mà bay giờ đang hằng ngày, hằng giờ thay da đổi thịt, cùng với những thắng cảnh, những di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo xa xưa… và của Lễ hội đền Sòng, thu hút bao du khách thập phương.
Tam Điệp – Ba Dội: Một vùng non nước hữu tình
Tam Điệp – Ba Dội, địa giới phân cách hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá, nơi có đường Thiên Lý Bắc - Nam chạy qua. Nơi đây đã từng là phòng tuyến vững chắc của Vua Qung Trung, khi tiến quân ra Bắc làm nên đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789, vang dậy non sông. Tam Điệp còn gọi là Ba Dội vì nó gồm 3 dãy núi đá vôi hình thù phức tạp, dị kỳ.
Quang cảnh đèo Ba Dội. |
Theo “Việt Nam từ điển” của Lê Ngọc Trụ thì “Tam Điệp - tục gọi là Đèo Ba Dội” dãy núi dài chia thành 3 đợt: Một ở phí Bắc Thanh Hoá, hai là ngọn cao nhất chia địa giới hai tỉnh Thanh Hoá và Ninh Bình, ba là trong địa phận tỉnh Ninh Bình. Cả ba chắn ngang đường Thiên Lý Bắc – Nam”.
Đỉnh đèo cao 110m so với mặt nước biển, ta có thể ngắm nhìn mây trời, non nước, biển khơi… tương truyền rằng, Liễu Hạnh công chúa đã từng lập quán bán hàng ở đỉnh đèo Ba Dội và cũng để giao du với khách văn chương. Mỗi khi nhắc lại chuyện xưa, nhân dân vẫn còn truyền tụng câu ca dao đầy lưu luyến:
Ăn trầu nhớ miếng cau khô
Trèo lên Ba Dội nhớ cô bán hàng
Tam Điệp - Ba Dội nằm trong vùng “nhất bách lục sơn” (106 quả núi), rừng núi trập trùng và con đường Thiên Lý đầy hiểm trở, dáng thắt cổ bầu quanh co uốn lượn qua những khe núi và những vách đá dựng đứng như bức tường thành, tạo nên thế trận “một địch muôn người” dưới con mắt của những nhà tài ba quân sự, Tam Điệp - Ba Dội cũng là nguồn cảm hứng vô tận cho những tao nhân mặc khách mỗi lần qua lại.
Hồ Xuân Hương – Bà chú thơ nôm đã tả đèo Ba Dội: “Một đèo, một đèo, lại một đèo” - Ở ngay câu đầu ta đã hình dung được đây là ba đèo liên tiếp với cảnh đầy mầu sắc và sống động, đậm nét trữ tình đằm thắm và trào lộng đầy ý vị…
Đèo Ba Dội
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Bậc đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo!
Phạm Huy Chú (1782 - 1840) đã viết về ngọn núi cao, cỏ cây xanh tốt, đứng trên ngọn núi trông thấy biển lớn, là một cửa ải trọng yếu của xứ Thanh Hoá. Núi ở chung quanh, đường đi ở giữa, trông về hai bên tả hữu, núi như chậu úp một loạt, chỗ gần hết núi thì hai bên như bức vách đứng thẳng lên, giữa có một lối đi lại, tục truyền đó là miệng của thầy tu Khổng Lồ (tức sư Không Lộ đời Lý, tục gọi là Khổng Lồ).
Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) đã có thơ vịnh:
Phiên âm:
Đoạn tục quần sơn nhãn giới khoan
Ngư thuyền thiên khống Cửa Chân quan.
Dịch nghĩa:
Một dãy núi chỗ cách, chỗ liền, tầm con mắt coi rất bát ngát
Đó đơm cá của trời tạo ra để chắn lấy cửa ải Cửa Chân.
Tạm dịch thơ:
Dãy núi trập trùng tầm mắt thoáng
Tựa đó đơm trời trấn Cửa Chân.
(Đặng Anh - dịch)
(Lịch Triều Hiến Chương loại chí. Tập 1. Sử học 1960 – trang 45)
Quốc Sử quán triều Nguyễn thì viết “… Đứng ở đỉnh núi trông ra ngoài biển, buồm thuyền như lá tre, hai ngọn phía tả hữu nơi thấp và bằng. Năm Thiệu Trị thứ 3 Vua xa giá tuần du phương Bắc, có làm thơ khắc vào đá dựng nhà bia ở ngọn giữa”. (“Đại Nam nhất thống trí” Tập II – Nhà xuất bản KHXH, 1970 – trang 218).
Nhà bia hiện nay đã được trùng tu và tôn tạo khang trang, uy nghi, đường bệ giữa đồi cao lộng gió. Tấm bia khắc bài thơ của vua Thiệu Trị được lưu giữ tại nhà bia.
Sau đây là bài thơ của vua Thiệu Trị (1841 – 1847)
Phiên âm:
Đường lộ sầm khâm tích thuý nồng
Tầng tầng túng bộ khoá Cầu Long
Bất vi Vương thất không lưu kính
Canh tác La Pù thặng biệt tung
Viễn nhạ tương phùng lâm nhất đỉnh
Cao phân diệt xuất thướng trùng phong
Toàn ngon phấn trấn Thanh Ninh cảnh
Khôi phục bàn hồ diệu tú chung.
Dịch thơ:
Giữa lối xanh um, núi chất chồng
Tầng tầng phóng bước cưỡi Cầu Long
Chẳng như Vương Ốc chừa nơi tắt.
Còn giống La Phù biệt lối thông
Đón gặp, thăm xa, xuôi một ngọn
Vin cao, trùng điệp, biết bao vùng
Thanh Ninh hai trấn đây ranh giới
Lên xuống, quanh co lượn khắc vùng.
(Bùi Vĩ - dịch)
Tam Điệp - Ba Dội hôm nay đang khởi sắc cùng với khu công nghiệp Bỉm Sơn, một tiềm năng lớn về kinh tế của Tỉnh ta trong thời kỳ đổi mới.
Tam Điệp - Ba Dội không còn heo hút, trập trùng, hoang sơ như thuở nào… mà bay giờ đang hằng ngày, hằng giờ thay da đổi thịt, cùng với những thắng cảnh, những di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo xa xưa… và của Lễ hội đền Sòng, thu hút bao du khách thập phương.